Lời giới thiệu
Chào các em học sinh thân mến!
Ông bà ta có câu “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, một ngày khi các em bước ra khỏi ngôi nhà yêu quý của mình là các em sẽ học được rất nhiều điều hay và bổ ích trong cuộc sống. Ngay cả trong trường học, các thầy cô cũng luôn tạo điều kiện cho các em có những chuyến đi tham quan thực tế để các em có thể hiểu rõ hơn về những điều mình được học. Tuy nhiên, trong điều kiện của nhà trường, các em chỉ có thể tham quan những khu di tích lịch sử, những danh lam thắng cảnh trong phạm vi thành phố. Vậy các em có bao giờ thắc mắc ngoài thành phố của chúng ta, các tỉnh thành khác có những địa điểm nào nổi tiếng nữa không. Thầy tin chắc là cũng có nhiều em trong trường được bố, mẽ dẫn đi du lịch nhiều nơi, các em cũng biết được nhiều thông tin thú vị về đia lí đất nước mình. Còn các bạn khác không có cơ hội để đi du lịch thì sao?
Nắm bắt được tình hình này, thư viện trường đã biên soạn quyển thư mục “Việt Nam quê hương em”. Trong quyển thư mục này, các em sẽ tìm được những quyển sách giới thiệu về một hoặc nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh của đất nước mình. Những tên sách này được minh hoạ bằng những hình ảnh rõ, đẹp, sinh động giúp các em có cảm giác như đang được đi du lịch. Thư mục sắp xếp các sách theo thứ tự các địa danh từ Bắc vào Nam giúp các em dễ dàng tra cứu.
Thư viện rất mong các em sẽ đón nhận quyển thư mục này!
Đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm
Đền Quốc Mẫu Âu Cơ được xây trên núi Ốc Sơn, còn gọi là núi Vặn, cao trên 147m so vo71ima85t biển. Nằm trong khu di tích đền Hùng, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Đền thờ được thiết kế dựa trên nền kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá của thời kỳ Đông Sơn. Đền thờ mẫu Âu Cơ, người mẹ huyền thoại, linh thiêng, huyền diệu có công đầu trong việc khai hoang, mở cõi của dân tộc. Nếu các em muốn biết thêm những kiến trúc bên trong và bên ngoài ngôi đền này có gì đặc sắc thì hãy tìm đọc quyển sách này!
Hồ Gươm. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm
Hồ Gươm là tên gọi tắt của hồ Hoàn Kiếm (hồ trả gươm) do sự tích vua Lê Thái Tổ trả lại gươm cho rùa thần. Hồ Gươm nằm ở trung tâm thành phố Hà Nội, thuộc quận Hoàn Kiếm; có chu vi khoảng 1700m. Cụ Nguyễn Văn Siêu (1799-1870) – người phụ trách trùng tu đền Ngọc Sơn (1860-1866) – đã ví Hồ Gươm như một chén nước và đảo Ngọc nổi bồng bềnh trên đó. Để biết thêm vẽ đẹp của Hồ Gươm ra sao mà lại được cụ ví von như vậy, hãy tìm đọc quyển sách này nhé các em!
Phố Hà Nội. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm
Tập sách nhỏ này giới thiệu những phố quen thuộc của Hà Nội với những ai mới lần đầu ghé thăm. Chẳng hạn như: phố ngắn nhất Hà Nội – Hồ Hoàn Kiếm; phố chỉ có một số nhà – Mai Xuân Thưởng; phố không có số nhà – Hoả Lò; phố xung quanh Hồ Gươm: Đinh Tiên Hoàng, Hàng Khay, Lê Thái Tổ, Tràng Tiền; phố ngang qua Văn Miếu – Quốc Tử Giám, phố chen giữa Hồ Tây và hồ Trúc Bạch – Thanh Niên; phố hoa sữa đi vào thơ ca – Nguyễn Du. Để biết thêm thông tin về những con phố đặc biệt này, các em hãy tìm đọc quyển sách này
Văn Miếu Quốc Tử Giám. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm
Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông, là nơi thờ Khổng Tử, các bậc Hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc tử giám Chu Văn An, người thầy đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Quốc Tử Giám được xây dựng năm 1076 dưới triều vua Lý Nhân Tông, là nơi đào tạo nhân tài cho đất nước, là trường đại học đầu tiên ở nước ta. Để biết thêm các về kiến trúc bên trong Văn Miếu như thế nào các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Khu di tích Cổ Loa. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm
Khu di tích Cổ Loa có diện tích khoảng 500ha, cách trung tâm Hà Nội 17km về phía bắc. Đây là một di tích lịch sử văn hoá đặc biệt của cả nước. Ở đây có nhiều di chỉ khảo cổ phản ánh sự phát triển của các nền văn minh: sơ khai, thời kỳ Đồ đá, thời kỳ Đồ đồng và thời kỳ Đồ sắt; đỉnh cao là nền văn hoá Đông Sơn. Để biết thêm khu di tích này gắn liền với những di chỉ khảo cố đó như thế nào các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Thành cổ Hà Nội. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Theo tài liệu hướng dẫn của Ban quản lý khu di tích Thành cổ thuộc Sở Văn hoá và Thông tin Hà Nội, hiện nay Thành cổ Hà Nội chỉ còn lại 5 điểm di tích chính nổi trên mặt đất; đó là: Kỳ Đài, Đoan Môn, Di tích điện Kính Thiên, Hậu Lâu và Bắc Môn. Ngoài ra, còn có nhiều di tích khảo cổ còn ẩn sâu trong lòng đất, chạy dọc theo trục chính tâm của thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn (hướng Nam, Bắc); được giới hạn trong hình thang vuông bởi các đường hiện nay: Điện Biên Phủ, Hoàng Diệu, Phan Đình Phùng, Nguyễn Tri Phương. Để tìm hiểu những di tích nổi và ẩn sâu lòng đất của Thành cổ Hà Nội, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Nhà tù Hoả Lò. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Ngày 17/10/1887, tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập Liên bang Đông Dương với viên toàn quyền là Paul Doumer. Thực dân Pháp đã nhanh chóng xây dựng Đề lao Trung ương (tên tiếng Pháp là Maison Centrale) cùng với toà Đại hình và sở Mật thám tại làng Phụ Khánh, tổng Vĩnh Xương cũ của Hà Nội. Làng Phụ Khánh chuyên sản xuất đồ gốm và hoả lò bằng đất, vì thế có thôn mang tên Hoả Lò. Vì lý do đó, Đề lao Trung ương còn có tên gọi là nhà tù Hoả Lò. Trên đây là hoàn cảnh ra đời cũng như xuất xứ của tên gọi nhà tù Hoả Lò, nếu các em muốn biết thêm những thông tin khác về di tích này hãy tìm đọc quyển sách này!
Đền Kim Liên. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Đền đình Kim Liên là một trong “Thăng Long Tứ Trấn”, được xây dựng từ khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư và Thăng Long, thờ thần Cao Sơn. Theo truyền thuyết, ông là một trong những người con của Lạc Long Quân và bà Âu Cơ ở lại mặt đất để làm bộ tướng thân cận cho Sơn Tinh (tức thánh Tản Viên). Sau này, thần ở dưới thế tên là Nguyễn Hiền, thông minh từ nhỏ, làm quan đến chức thừa tướng triều nhà Lê, có công giúp vua Lê Tương Dực (1510-1516) dẹp loạn và khôi phục nhà Lê. Khi mất, ông được vua Lê phong là “Cao Sơn Quốc Chủ Đại Vương”, cho xây đền và dựng bia thờ. Trên đây là sự tích về sự ra đời của đền Kim Liên, nếu các em muốn tìm hiểu kiến trúc ngôi đền này hãy tìm đọc quyển sách này!
Đền Quán Thánh. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Đền Quán Thánh là một trong “Thăng Long Tứ Trấn”, được lập từ khi Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long (1010). Ba chữ Hán chạm trên nóc cổng là “Chân Vũ Quán” có từ năm 1840. Trước kia có tên là Trấn Vũ Quán. Do “quán” là nơi thờ tự của Đạo giáo, cũng như tự là chùa của Phật giáo. Gọi đúng tên là Quán Thánh hay Trấn Vũ Quán. Sau này, người ta quen gọi thành đền Quán Thánh. Trên đây là sự tích về sự ra đời của đền Quán Thánh, nếu các em muốn tìm hiểu kiến trúc ngôi đền này hãy tìm đọc quyển sách này!
Đền Bạch Mã. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Đền Bạch Mã được xây dựng ở hướng chính đông, trước khi có kinh thành Thăng Long. Năm 866, Cao Biền (viên tướng phương Bắc sang để đắp thành Đại La) xây dựng đền Bạch Mã để thớ thần Long Đỗ. Có truyền thuyết rằng: Vào một buổi dạo chơi ở cửa Đông, Cao Biền thấy một cụ già tóc bạc phơ cưỡi rồng bay lượn trên cụm mây ngũ sắc và biến vào bầu trời xanh thẳm. Tối đến, Cao Biền nằm mơ, biết đó là Long Đỗ - thần của nước Nam. Cao Biền tìm mọi cách yểm vị thần đó nhưng không được… Trên đây là sự tích về sự ra đời của đền Bạch Mã, nếu các em muốn tìm hiểu kiến trúc ngôi đền này hãy tìm đọc quyển sách này!
Đền Ngọc Sơn. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Phía nam Hồ Gươm có Tháp Rùa, phía bắc có hòn đảo Ngọc. Vào cuối thập kỷ 40 của thế kỷ XIX, ông Tín Trai người làng Nhị Khê mở rộng đền Quan Đế có sẵn trên đảo Ngọc thành chùa Ngọc Sơn. Thế nhưng, chẳng bao lâu sau, chùa bị hư nát. Đến năm 1841, ông Tín Trai đã giao đền lại cho hội Hướng Thiện để sữa chữa. Sau khi sửa chữa, hội Hướng Thiện đã dùng đền Ngọc Sơn để giáo dục văn hoá, tuyên truyền chống Pháp; tập hợp các nhà Nho yêu nước như: Nguyễn Văn Si êu (1799-1870), Vũ Tông Phan (1800-1851)… để đề cao điều nhân nghĩa và gìn giữ thuần phong mỹ tục. Trên đây là sự tích về sự ra đời của đền Ngọc Sơn, nếu các em muốn tìm hiểu kiến trúc ngôi đền này hãy tìm đọc quyển sách này!
Đền Voi phục. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Đền Voi Phục còn được gọi là đền Thủ Lệ vì được xây dựng trên đất làng Thủ Lệ, phía Tây kinh thành Thăng Long xưa, nay thuộc phường Cầu Giấy, quận Ba Đình, Hà Nội. Đền nằm trong khuôn viên của công viên Thủ Lệ nên lúc nào cũng có nét trầm mặc và an bình. Đền Voi Phục là di tích lịch sử văn hoá được Nhà nước xếp hạng vào tháng 2 năm 1962. Để biết thêm những thông tin thú vị về ngôi đền, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Đền vua Đinh Tiên Hoàng. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Đền vua Đinh và đền vua Lê được xây dựng trên nền cung điện kinh đô Hoa Lư xưa. Ban đầu, hai ngôi đền quay về hướng bắc, trông ra núi Hồ và núi Chẻ. Sau này, hai ngôi đền không còn nữa. Năm 1600, Lễ Quân Công Bùi Thời Trung xây lại hai ngôi đền như cũ nhưng cho quay theo hướng đông (hơi chếch về hướng nam). Hiện nay, hai ngôi đền đã được trùng tu theo như nguyên mẫu, nằm trong quần thể di tích cố đô Hoa Lư. Cố đô Hoa Lư được mệnh danh là vịnh Hạ Long trên cạn với hai ngôi đền vua Đinh và vua Lê còn lưu giữ được nhiều tác phẩm điêu khắc đậm nét dân gian. Để tìm hiểu kiến trúc của đền vua Đinh Tiên Hoàng, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Đền vua Lê Đại Hành. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Đền vua Đinh và đền vua Lê được xây dựng trên nền cung điện kinh đô Hoa Lư xưa. Ban đầu, hai ngôi đền quay về hướng bắc, trông ra núi Hồ và núi Chẻ. Sau này, hai ngôi đền không còn nữa. Năm 1600, Lễ Quân Công Bùi Thời Trung xây lại hai ngôi đền như cũ nhưng cho quay theo hướng đông (hơi chếch về hướng nam). Hiện nay, hai ngôi đền đã được trùng tu theo như nguyên mẫu, nằm trong quần thể di tích cố đô Hoa Lư. Cố đô Hoa Lư được mệnh danh là vịnh Hạ Long trên cạn với hai ngôi đền vua Đinh và vua Lê còn lưu giữ được nhiều tác phẩm điêu khắc đậm nét dân gian. Để tìm hiểu kiến trúc của đền vua Lê Đại Hành, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Đền Đô. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Đền Đô tức đền Cổ Pháp, được xây dựng từ thế kỷ XI (1030) trên khu đất phía đông nam hương Cổ Pháp, châu Cổ Pháp (làng Đình Bảng, xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), quê phát tích nhà Lý. Đền được xây dựng trên nền đất khi vua Lý Công Uẩn lên ngôi và trở lại thăm quê hương. Đền Đô có 21 hạng mục công trình với trung tâm là điện thờ - nơi đặt bài vị và tượng tám vị vua nhà Lý. Xung quanh có nhà chuyển bồng, nhà tiền tế, phương đình, đền vua Bà, nhà bia, nhà để kiệu thờ, nhà để ngựa thờ, Văn chỉ, Võ chỉ, năm cửa rồng, nhà thuỷ đình… Để tìm hiểu các hạng mục công trình này, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Thừa Thiên – Huế. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Thừa Thiên – Huế luôn được đề cập đến trong các bộ sách giáo khoa từ lớp 2 đến lớp 12. Từ những cảnh thơ mộng của sông Hương, núi Ngự Bình trong các sách Tiếng Việt, Mỹ Thuật cho đến những địa danh lịch sử của Thừa Thiên – Huế trong các sách Lịch sử, Địa lí… cho thấy tầm quan trọng của Huế trong quá khứ và hiện tại. Thừa Thiên – Huế ở khoảng giữa với Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, luôn xứng danh là thành phố quan trọng về văn hoá và lịch sử của đất nước. Để tìm hiểu những địa danh lịch sử cũng như những khung cảnh thơ mộng của Huế, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Những di tích bên bờ sông Hương. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Sông Hương được xem là một trong những con sông thơ mộng và đẹp của Việt Nam. Từ chùa Thiên Mụ, sông Hương ôm lấy cồn Giã Viên giữa hai làng Kim Long và Thuỷ Xuân rồi chảy ngang sông kinh thành Huế. Đến cồn Huế, sông Hương rẽ thành 2 nhánh: một nhánh ngang qua thôn vĩ dạ và một nhánh qua làng Phù Cát (Gia Hội). Trước khi gặp con sông đào Gia Hội ở cuối làng Kẻ Trài và bải biển làng Tả Duệ, sông Hương uốn khúc qua làng Nam Phổ. Nơi gặp gỡ của sông đào Gia Hội và sông Hương gọi là “ngã ba Sình”. Ra khỏi thành phố Huế, sông Hương xuôi về biển giữa cảnh đẹp của hai thôn Thái Dương và An Dương ở cửa Thuận An. Để tìm hiểu những di tích bên bờ sông Hương, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Lăng tẩm các vua nhà Nguyễn. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Nhà Nguyễn Trải qua chín đời chúa, 13 đời vua. Đó là: chúa Nguyễn Hoàng, chúa Nguyễn Phúc Nguyên, chúa Nguyễn Phúc Lan, chúa Nguyễn Phúc Tần, chúa Nguyễn Phúc Trăn, chúa Nguyễn Phúc Chu, chúa Nguyễn Phúc Chú, chúa Nguyễn Phúc Khoát, chúa Nguyễn Phúc Thuần; vua Gia Long, vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị, vua Tự Đức, vua Dục Đức, vua Hiệp Hoà, Vua Kiến Phúc, vua Hàm Nghi, vua Đồng Khánh, vua Thành Thái, vua Duy Tân, vua Khải Định, vua Bảo Đại. Các em hãy tìm đọc quyển sách này để tìm hiểu lăng tẩm của các vị vua này!
Lăng Gia Long. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Lăng Gia Long ở cực nam so với các lăng triều Nguyễn và ở xa thành phố Huế nhất. Có lẽ bởi vì ở nơi xa vắng và vua Gia Long không được lòng dân vì chế độ chuyên quyền nên lăng của ông rất ít người viếng thăm và cũng là một trong những lăng hoang tàn nhất. Là người mở đầu triều Nguyễn, việc chọn lựa nơi an táng và mẫu kiến trúc lăng của vua Gia Long có ảnh hưởng nhiều đến lăng của những vị vua kế vị sau này. Để tìm hiểu vị trí cũng như kiến trúc của ngôi lăng đầu tiên triều Nguyễn, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Lăng Khải Định. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Vua Khải Định trị vì từ năm 1916 đến năm 1925, trong hoàn cảnh đất nước hoàn toàn mất quyền tự chủ vào tay người Pháp, đang bị nền văn hoá phương Tây xâm nhập mạnh mẽ. Sau khi trị vì được một thời gian, vua Khải Định đã lo nghĩ việc xây dựng lăng tẩm cho mình. Lăng được khởi công vào ngày thứ bảy 22 tháng 7 năm Giáp Thân và kéo dài trong 11 năm mới hoàn tất. Để có kinh phí xây dựng lăng, vua Khải Định đã xin chính phủ bảo hộ Pháp cho phép ông tăng thuế điền 30% trên cả nước. Việc làm này của vua Khải Định bị dân chúng oán thán và lên án gay gắt. Để tìm hiểu tại sao hoàn thành lăng Khải Định lại tốn nhiều kinh phí như vậy, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Lăng Minh Mạng. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Lăng Minh Mạng ở Hiếu Sơn (núi Cẩm Kê), xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế, gần ngã ba Bằng Lãng – nơi hợp lưu nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành con sông Hương. Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu Lăng, cách thành phố Huế 12km. Nơi đây là một khu vực kiến trúc lớn, gồm khoảng 40 công trình (điện, đền, hồ…) sắp xếp trên trục đối xứng, chạy từ Đại Hồng Môn đến chân La Thành ở phía sau lăng. Các em hãy đọc quyển sách này để biết thêm về kiến trúc lăng Minh Mạng!
Lăng Tự Đức. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Lăng của vua Tự Đức còn gọi là Khiêm Lăng, nằm ở làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Lăng khởi công xây từ tháng 11 năm Giáp Tý (1864), hoàn thành vào tháng 7 năm Đinh Mão (1867), đang lúc vua còn trị vì. Đây là một kiến trúc tinh xảo trong khung cảnh thơ mộng. Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn. Tên các bộ phận kiến trúc trong lăng đều được gắn với chữ Khiêm. Để biết các bộ phận kiến trúc bên trong lăng như thế nào, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Từ Hiển Lâm Các đến Thế Miếu. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Hiển Lâm Các được xây dựng vào năm 1821, hoàn thành vào năm 1822; được xem là đài kỉ niệm ghi nhớ công tích của các vua Nguyễn và các quan đại thần có công lớn của triều đại. Phía sau Hiển Lâm Các là Thế Miếu, nơi có dãy án thờ 10 vị vua nhà Nguyễn. Các án thờ vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Kiên Phúc, Đồng Khánh, Khải Định tương ứng với đỉnh đồng đối diện qua sân Thế Miếu. Ba vị vua còn lại (Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân) không có đỉnh đồng biểu trưng theo miếu hiệu. Để tìm hiểu từ Hiển Lâm Các đến Thế Miếu có gì đặc biệt, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Cửu Đỉnh. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Cửu Đỉnh là 9 chiếc đỉnh đồng tròn to được đúc dưới thời Minh Mạng, hiện đang được đặt trước sân Thế Miếu (Thế Tổ Miếu) trong Đại Nội. Mỗi chiếc đều cao khoảng từ 2,3-2,5m. Điều đặc biệt là trên thân các đỉnh này, ngoài các dòng chữ Hán ghi chú về niên đại, trọng lượng và trên đỉnh còn có chạm nổi hình tượng của núi sông, cảnh vật nước Đại Nam trong thế kỷ XIX kèm theo tên gọi cụ thể. Thế nhưng chưa ai giải thích được vì sao chiều cao, đường kính, trọng lượng của các đỉnh sau Cao Đỉnh lại khác nhau và không theo một trật tự ưu tiên nào. Nếu các em muốn tìm hiểu thêm những thông tin thú vị khác về Cửu Đỉnh, hãy tìm đọc quyển sách này!
Từ Ngọ Môn đến Thái Hoà Điện. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Ngọ Môn là cổng chính ở hướng Nam, cũng là bộ mặt của Hoàng Thành. Ngọ Môn được xây dựng vào năm 1883 dưới đời vua Minh Mạng. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, Ngọ Môn vẫn đứng vững cùng với thời gian. Thái Hoà Điện là một trong những điện của hoàng cung triều Nguyễn. Thái Hoà Điện có tầm quan trọng về chức năng, ý nghĩa lịch sử, giá trị nghệ thuật. Điện Thái Hoà được vua Gia Long cho xây dựng vào năm 1805, sau đó điện còn được tu sửa thêm nhiều lần nữa. Các em hãy tìm đọc quyển sách này để biết từ Ngọ Môn đến Thái Hoà Điện có những điều gì đặc biệt!
Tử Cấm Thành. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Tử Cấm Thành nguyên gọi là Cung Thành, được khởi công xây dựng từ năm Gia Long thứ 2 (1803). Đến năm Minh Mạng thứ 2 (1821) đổi tên là Tử Cấm Thành. Thành có hình dạng chữ nhật với cạnh nam bắc dài 341m, cạnh đông tây dài 308m, chu vi 1300m. Tường thành xây hoàn toàn bằng gạch vồ, dày 0,7m, cao 3,7m. Để tìm hiểu thêm về kiến trúc của Tử Cấm Thành, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Bảo tàng mỹ thuật cung đình Huế. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Bảo tàng mỹ thuật Cung đình Huế là một viện bảo tàng trực thuộc sự quản lý của Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế. Tòa nhà chính của viện bảo tàng bằng gỗ, có 128 cây cột gỗ quý, trên các cột có hình chạm khắc tứ linh: long - li - quy - phụng và hơn 1000 bài thơ bằng chữ Hán. Tòa nhà này chính là điện Long An xây năm 1845 dưới thời vua Hiến tổ nhà Nguyễn, niên hiệu là Thiệu Trị. Hiện bảo tàng trưng bày hơn 300 hiện vật bằng vàng, sành, sứ, pháp lam Huế, ngự y và ngự dụng, trang phục của hoàng thất nhà Nguyễn, cho khách tham quan một cái nhìn tổng thể về cuộc sống cung đình Huế. Để tìm hiểu nhiều hơn về bảo tàng mỹ thuật cung đình Huế, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Điện Tây Sơn. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Tây Sơn Điện được xây dựng vào những năm đầu thế kỷ XIX để bí mật thờ ba anh em Tây Sơn. Trước đây thuộc Đình ở làng Kiên Mỹ, ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn - nay là khối 1, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Tây sơn Điện được kiến trúc theo kiểu chữ đinh, móng xây đá chẻ, vách xây gạch đặc, mái lợp ngói đúc bằng xi măng, diện tích trên 100m2. Điện thờ chính có 3 gian, chính giữa thờ Quang Trung Hoàng đế - Nguyễn Huệ. Bên phải thờ Thái Đức Hoàng đế - Nguyễn Nhạc, bên trái thờ Đông Định Vương - Nguyễn Lữ. Tả, hữu điện thờ các quan văn võ và tiên tổ dòng họ nhà Tây Sơn… Để tim hiểu thêm về điện Tây Sơn, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Văn Miếu Trấn Biên. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Năm 1715, đời vua Lê Hiển Tông, Văn Miếu Trấn Biên được xây dựng tại thôn Tân Lại, huyện Phước Chánh (nay là phường Bửu Long, Tp. Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai) nhằm tôn vinh đạo học, nói lên ý chí tự cường của những người đi mở cõi. Văn Miếu được trùng tu lần thứ nhất vào năm 1794, lần thứ hai vào năm 1852. Năm 1861, sau khi chiếm Biên Hoà, quân Pháp đã phá huỷ Văn Miếu Trấn Biên. Nhân kỉ niệm 300 năm Biên Hoà – Đồng Nai, Văn Miếu Trấn Biên được dựng lại trên nền đất cũ với diện tích khoảng 90.000m2. Trên đây là sơ Lược về Văn Miếu Trấn Biên, để tìm hiểu nhiều hơn các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Bảo tàng Quang Trung. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 20tr. ; 19cm.
Bào tàng Quang Trung được khởi công xây dựng năm 1977, khánh thành năm 1979 trên quê hương người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ - bên bờ bắc sông Kôn thuộc làng Liên Mỹ, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, cách trung tâm thành phố Quy Nhơn 45km về phía Tây Bắc. Bảo tàng Quang Trung là trung tâm văn hoá, lịch sử tiêu biểu của Tây Sơn – Bình Định, hợp cùng với quần thể các di tích lịch sử ở cả hai vùng Tây Sơn thượng đạo và Tây Sơn hạ đạo, Bảo tàng Quang Trung đã góp phần vào việc bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hoá thời Tây Sơn. Để tìm hiểu thêm về Bảo tàng Quang Trung, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Bưu điện TP. Hồ Chí Minh. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Ngay sau khi đánh thành Gia Định, chiếm được vùng đất Sài Gòn, Pháp đã thiết lập hệ thống thông tin liên lạc. Ngày 11-11-1860, “Sở dây thép” Sài Gòn (tức Bưu điện Sài Gòn) được thành lập. Ngày 13-1-1863, “Sở dây thép” Sài Gòn được chính thức khánh thành và phát hành “con cò” (người Sài Gòn xưa hay gọi con tem là con cò) đầu tiên. Nằm ở vị trí trung tâm của thành phố, vẻ đẹp độc đáo của tòa nhà Bưu điện Thành phố càng được tôn lên. Khác với các công trình kiến trúc đậm nét Pháp, Bưu điện Sài Gòn mang phong cách châu Âu kết hợp với nét trang trí châu Á. Để tìm hiểu nét độc đáo của Bưu điện TP. Hồ Chí Minh, các em hãy tìm đọc quyển sách này!
Chợ Bến Thành. – TPHCM: Trẻ, 2006. – 16tr. ; 19cm.
Đầu thế kỷ thứ XVII, vùng đất Sài Gòn xưa là nơi phố chợ đông đúc và náo nhiệt nhất Nam kỳ lục tỉnh. Trước khi Pháp chiếm thành Gia Định năm 1859 đã có một cái chợ nhỏ nằm ven sông Bến Nghé (sông Sài Gòn) và cạnh đường vào thành Gia Định. Có lẽ vì thế mà nó được đặt tên là chợ Bến Thành. Nằm ở vị trí trung tâm, chợ Bến Thành đã trở nên quá quen thuộc với du khách trong và ngoài nước khi đến thành phố Hồ Chí Minh. Chợ có quá trình phát triển gần 150 năm và đã trở thành biểu trưng của Sài Gòn trong lòng nhiều thế hệ. Để biết thêm những thông tin thú vị khác về chợ Bến Thành, các em hãy rìm đọc quyển sách này!